Đồng hành cùng trẻ bằng cách cho chúng có thêm không gian

Đồng hành cùng trẻ bằng cách giúp chúng tìm ra mục tiêu cho bản thân

Những cách dạy con đặt mục tiêu cho bản thân
Vạch ra mục tiêu ngắn hạn và dài hạn
Mục tiêu ngắn hạn là mục tiêu dưới 1 năm từ lúc đặt mục tiêu, trong khi mục tiêu dài hạn từ 3 – 5 năm. Trẻ nên xác định được con sẽ là ai, sẽ làm được gì theo những mốc thời gian như trên.Cha mẹ có thể dựa trên mô hình SMART để giúp con tự đặt ra mục tiêu ngắn hạn và dài hạn cho bản thân.
- S (Specific – cụ thể): mục tiêu phải được vạch ra một cách cụ thể thay vì chung chung
- M (Measurable – có thể đo lường được): những kết quả mong muốn được đề ra trong mục tiêu cần được gắn với các con số. Ví dụ: tăng 1 band điểm IELTS trong 2 tháng
- A (Attainable – có tính khả thi): mục tiêu không nên quá xa vời, sẽ khiến con nản chí, và cũng không nên quá dễ thực hiện, con sẽ không có động lực hành động
- R (Relevant – tính liên quan): các mục tiêu nhỏ hơn nên liên quan đến các mục tiêu lớn, các mục tiêu nên chia theo lĩnh vực
- T (Time – bound – gắn khung thời gian): mục tiêu sẽ được hoàn thành trong bao lâu
Đồng hành cùng trẻ bằng cách dạy viết ra giấy mục tiêu của bản thân và đặt nó ở những chỗ dễ thấy nhất
Chúng ta có quá nhiều thứ để nhớ trong khi bộ lưu trữ thông tin trong bộ não lại có giới hạn. Vì vậy, các con nên viết ra giấy những mục tiêu của mình để không gặp phải trường hợp vô tình quên đi, đặc biệt là những mục tiêu dài hạn. Các con cũng nên đặt những tờ giấy liệt kê các mục tiêu của mình ở những nơi dễ thấy để không ngừng thôi thúc bản thân đang nỗ lực vì điều gì.
Chú ý đến tâm lý của trẻ
Thay đổi hình thể ở độ tuổi tiền thiếu niên
Trẻ dậy thì sẽ có rất nhiều thay đổi từ hình thể đến tâm lý và sinh lý. Vì thế nếu bố mẹ không nắm bắt kịp thời để có hướng tư vấn, sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ.Sự thay đổi hình thể của bé gái trong độ tuổi dậy thì, cha mẹ cần lưu ý. Theo nghiên cứu cho biết dậy thì là giai đoạn phát triển từ trẻ em sang người trưởng thành, được bắt đầu từ 10 tuổi đến 19 tuổi. Trong độ tuổi này lại chia thành 3 giai đoạn khác nhau:
– Giai đoạn 1: 10-14 tuổi,
– Giai đoạn 2: 14-16 tuổi,
– Giai đoạn 3: 16-19 tuổi.

Mỗi giai đoạn lại có một sự thay đổi về tâm sinh lý khác nhau: Theo nghiên cứu để nhận biết con đang bắt đầu bước vào giai đoạn dậy thì, điều đầu tiên bố mẹ cần chú ý đến là sự phát triển về thể chất. Trong giai đoạn dậy thì, dưới tác động của các hormone tăng trưởng và hormone sinh dục, cơ thể trẻ sẽ phát triển mạnh mẽ cả về chiều cao và cân nặng. Đồng thời xuất hiện các đặc tính sinh dục thứ phát tạo ra sự khác biệt về vóc dáng cơ thể giữa trẻ nam và trẻ nữ. Thông thường, các trẻ em nữ sẽ dậy thì sớm hơn trẻ em nam từ 1 đến 2 năm.Phụ huynh cần phải chia sẻ với con về những thay đổi ở tuổi dậy thì để con không bị bỡ ngỡ. Thay đổi hình thể lớn nhất khi trẻ dậy thì đó là phát triển về vóc dáng cơ thể.
Thay đổi tâm sinh lý ở độ tuổi tiền thiếu niên
Tính độc lập của trẻ ở độ tuổi tiền thiếu niên
Từ một đứa trẻ phụ thuộc hoàn toàn vào bố mẹ, ở tuổi dậy thì trẻ thể hiện tính tự chủ trong suy nghĩ và hành động. Trẻ muốn được tham gia ý kiến và đưa ra các quyết định trong các vấn đề của mình. Tính độc lập của trẻ cũng tùy thuộc vào từng giai đoạn tuổi, ví dụ ở độ tuổi từ 10 đến 13 tuổi trẻ bắt đầu có xu hướng tách khỏi cha mẹ, ít tham gia các hoạt động cùng cha mẹ, miễn cưỡng chấp nhận lời khuyên của cha mẹ.Ở giai đoạn từ 14 đến 16 tuổi những mâu thuẫn của trẻ với cha mẹ ngày càng gay gắt và lên đến đỉnh điểm do ngày càng ít quan tâm đến gia đình và giành nhiều thời gian với bạn bè hơn. Còn từ 17 đến 19 tuổi, lúc này trẻ có ý thức trở lại những giá trị lời khuyên của cha mẹ, tôn trọng hiểu biết hơn với những kinh nghiệm của cha mẹ truyền thụ lại.
Quan tâm đến hình ảnh cơ thể
Đây là thay đổi rất căn bản, vì ở tuổi dậy thì trẻ tò mò với những thay đổi trên cơ thể mình, muốn tìm hiểu cấu tạo cơ thể, sự khác biệt giới tính và bắt đầu có nhu cầu làm đẹp theo từng giai đoạn tuổi khác nhau. Từ 10 đến 13 tuổi trẻ bắt đầu quan tâm đến bản thân và những thay đổi trong quá trình dậy thì. Dễ lo lắng, buồn rầu về những nhược điểm của cơ thể hoặc hay so sánh mình với những bạn cùng trang lứa.
Quan hệ với bạn bè ở độ tuổi tiền thiếu niên

Mở rộng quan hệ xã hội, chơi theo nhóm bạn và chịu ảnh hưởng của nhóm bạn cùng chơi. Thay đổi cần chú ý nhất trong quan hệ bạn bè đó là giai đoạn từ 14 đến 16 tuổi trẻ bắt đầu chơi với những nhóm bạn khác giới, bắt đầu có quan hệ lãng mạn, hẹn hò và thử nghiệm tình dục.
Thay đổi về nhận thức ở độ tuổi tiền thiếu niên
Đây là giai đoạn tích lũy nhanh và mạnh các kinh nghiệm, kỹ năng sống và khả năng tư duy, phân tích những tình huống ngày một phát triển. Ví dụ như khả năng nhận thức được cảm xúc của bản thân với những người khác, chỉ số thông minh và sáng tạo tăng nhanh trong giai đoạn từ 14 đến 16 tuổi. Đặc biệt đề cao giá trị bản thân nên dễ dẫn đến hành vi, nguy cơ tự tử, trầm cảm, nghiện thuốc…
Đồng hành cùng con bằng các dạy con các kỹ năng mềm cần thiết cho lứa tuổi tiền thiếu niên
Theo nghĩa rộng, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) cho rằng: Kỹ năng mềm là tập hợp những kỹ năng cần thiết cho phép cá nhân thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Như vậy, kỹ năng mềm bao gồm từ những kỹ năng cơ bản, đơn giản như ăn, nói, đọc, viết, tính toán… cho tới các kỹ năng phức tạp như giao tiếp, ra quyết định, giải quyết vấn đề, tư duy phản biện…
Từ những đặc điểm lứa tuổi nêu trên, có thể thấy đối với học sinh THCS thì việc phát triển các nhóm kỹ năng mềm sau đây là hết sức cần thiết:
Nhóm kỹ năng tự nhận thức bản thân
Tự nhận thức bản thân là khả năng hiểu rõ chính xác bản thân mình, biết mình cần gì, muốn gì, đâu là điểm mạnh và điểm yếu của mình, nhận thức được tư duy và niềm tin của mình, cảm xúc và những động lực thúc đẩy trẻ trong cuộc đời. Kỹ năng nhận thức bản thân không những giúp trẻ hiểu về bản thân mình mà còn dễ dàng hiểu được người khác, cách họ suy nghĩ về chúng cũng như thái độ và sự phản hồi của người khác với bản thân trẻ.
Nhóm kỹ năng giao tiếp ứng xử (giao tiếp trong môi trường học đường với bạn bè, thầy cô, giao tiếp trong gia đình với cha mẹ, ông bà, giao tiếp ngoài xã hội với những người xung quanh)
Đối với trẻ nhỏ, các cấp độ giao tiếp của trẻ phát triển dần theo độ tuổi. Ngay từ khi trẻ chào đời, các con giao tiếp bằng mắt, qua các cử động của chân, tay, đặc biệt là qua tiếng khóc… Lên 3 tuổi, trẻ bắt đầu sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp, thể hiện thái độ, cảm xúc thông qua giao tiếp phi ngôn ngữ như ngôn ngữ cơ thể, ánh mắt, nét mặt… Vì vậy, giao tiếp chính là “công cụ” quan trọng để trẻ tồn tại và phát triển.
Việc dạy trẻ kỹ năng sống, điển hình là kỹ năng giao tiếp ngay từ nhỏ sẽ giúp trẻ làm chủ ngôn ngữ, biết vận dụng ngôn ngữ để cư xử lịch sự, nhã nhặn hay thể hiện quan điểm, cá tính của bản thân; kết nối hiệu quả với mọi người xung quanh…
Nhóm kỹ năng hợp tác và chia sẻ (làm việc nhóm, giải quyết xung đột…)
Kỹ năng hợp tác là sự liên kết giữa các cá nhân trong một tổ chức. Nơi mà mọi người cùng nhau chia sẻ và đóng góp sức mình vào công việc chung, hướng đến mục tiêu chung. Sự hợp tác diễn ra khi tất cả mọi người đều hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau trong công việc và học tập.
Những năm gần đây, kỹ năng hợp tác được đưa vào nội dung giảng dạy tại các trường mầm non và cấp tiểu học nhằm làm tiêu chuẩn đánh giá học sinh. Với mục tiêu phấn đấu theo 4 trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI: “Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để làm người”, kỹ năng hợp tác trở thành nội dung bắt kịp với xu thế dạy học hiện đại và phát triển toàn diện về tư duy và thể chất của trẻ em.
Nhóm kỹ năng phân biệt hành vi hợp lý và chưa hợp lý
Nhóm kỹ năng này sẽ giúp trẻ nhận thức được các hành vi nên làm và không nên làm, những hành vi nào là vi phạm để tự bản thân tránh xa.
Lời nói sau cùng
Bạn phải biết rằng mối quan hệ cha mẹ – con cái tốt đẹp chính là tiền đề để giải quyết mọi vấn đề. Trở thành bạn tâm giao đồng hành của trẻ có thể giúp chúng tránh xa hiểm họa tiềm tàng nếu có. Phụ huynh có thể xem thêm nhiều kiến thức nuôi dạy con tại website FPT AfterSchool